Xã Xuân Thắng 30 năm xây dựng và trưởng thành.
Xã Xuân Thắng 30 năm xây dựng và trưởng thành.
Không khí chuẩn bị lễ tổ chức 30 năm thành lập xã (29/9/1983-29/9/2013)
Lế tổ chức 30 năm thành lập xã
Từ khi được thành lập đến nay, địa giới hành chính xã Xuân Thắng tương đối ổn định, có ranh giới tiếp giáp với các xã như sau: phía Bắc xã giáp xã Xuân Lộc; Phía Nam giáp xã Cát Vân (huyện Như Xuân); phía Đông giáp xã Tân Thành và Luận Khê; phía Tây giáp xã Xuân Chinh. Địa hình của xã dạng lồi lõi, cao thấp không đều. Vùng thấp chiếm diện tích nhỏ là các thung lũng hẹp và vùng chân núi nơi hình thành các cánh đồng trồng lúa và khu dân cư, xây dựng các công trình phát triển kinh tế - xã hội, phúc lợi công cộng. Vùng đồi núi cáo chiếm phần lớn diện tích. Trên địa bàn xã có các ngọn núi cao như Bù Tây Thang (309,4m) ở phía Nam của xã, Bù Ngua (512,4m) ở phía Bắc của xã. Hệ thống sông suối ít, chỉ có Sông Đót từ huyện Như Xuân chảy qua địa bàn khoảng 5km, còn lại các khe suối nhỏ, nên nguồn nước mặt cho sản xuất nông nghiệp thiếu, nhất là vào mùa khô. Đặc điểm khí hậu của xã mang đặc thù khí hậu nhiệt đới gió mùa của vùng miền núi Thanh Hoá: nắng nóng về mùa hè, rét buốt về mùa đông, khô hạn về mùa đông - xuân, mưa nhiều gây lũ lụt và giông bão về mùa hè - thu.
Hiện nay, dân số của xã 4.350 khẩu, 969 hộ, gồm 2 dân tộc: dân tộc Thái 4.263 người (chiếm 98%), dân tộc Kinh 87 người (chiếm 2%) mới định cư từ sau năm 1962 theo chủ trương định canh định cư xây dựng kinh tế mới của Đảng và Nhà nước. Đồng bào dân tộc Thái sớm có mặt trên vùng đất này, đã cùng chung lưng đấu cật khắc phục khó khăn, chống chọi với thú dữ và thiên tai, địch họa để tạo lập, xây dựng cuộc sống, giữ gìn và phát huy sắc thái, bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc. Từ cuối thời Trần, vùng đất xã Xuân Thắng đã tương đối phát triển, bước vào giai đoạn mới. Nếu như các bản làng nười Thái xung quanh vẫn là các động, sách - tức đơn vị hành chính cơ sở mang tính tự quản, thì nơi đây chính quyền phong kiến trung ương đã cho thiết lập bộ máy hành chính cơ sở chính thức với tên gọi thôn Thọ Thắng (thôn tương đương xã). Tên gọi này là sự chuyển âm tên gọi bản làng của đồng bào dân tộc Thái sang tiếng Việt theo âm Hán - Việt: Thọ xuất phát từ Khó - Ban Khó, Thắng xuất phát từ Săng - Ban Săng. Thọ Thắng là 1 trong 12 thôn, động, sách (đơn vị hành chính cơ sở) của huyện Thọ Xuân - cũ, thuộc trấn Thanh Đô. Cuối đời Lê, do thiên tai, giặc giã liên miên, hơn một nửa số đơn vị hành chính cơ sở của huyện Thọ Xuân nhân dân lưu tán hết, nhân dân Thọ Thắng, cùng với nhân dân Mậu Lộc, Trịnh Vạn, Quân Thiên, Lâm Lự đã kiên trì bám trụ ở lại giữ đất, giữ làng tiếp tục xây dựng vùng đất này. Thời Nguyễn, triều đình phong kiến trung ương quyết định xóa tên huyện Thọ Xuân và nhập phần đất của huyện Thọ Xuân vào châu Lang Cháng. Thọ Thắng cùng với Mậu Lộc thuộc tổng Mậu Lộc, cùng với các tổng Trịnh Vạn, Quân Thiên, Lâm Lự thuộc châu Lang Chánh. Năm 1837, thành lập châu Thường Xuân trên cơ sở vùng đất huyện Thọ Xuân - cũ. Lúc này thôn Thọ Thắng, đổi thành xã Thọ Thắng, thuộc tổng Trịnh Vạn, châu Thường Xuân cho đến cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Ngày 03/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời lãnh đạo nhân dân làm cách mạng. Do tay sai phong kiến và chủ tư bản Pháp kìm kẹp, giam hãm, bưng bít thông tin… nên ở Thọ Thắng nói riêng và châu Thường Xuân nói chung chưa có điều kiện thành lập các tổ chức cách mạng và tổ chức Đảng. Cuối năm 1936, đồng chí Nguyễn Ngọc Chấn (quê ở huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh) được Chi bộ Neo - Quần Kênh (huyện Thọ Xuân) bố trí đưa về thôn Dín để hoạt động với danh nghĩa là thầy giáo dạy chữ Quốc ngữ. Sau một thời gian ngắn tổ chức dạy học, đồng chí Chấn đã bí mật tuyên truyền và giác ngộ cách mạng cho 2 đồng chí Vi Đức Kính, Vi Thế Cảnh, là con em xã Xuân Thắng. Thông quan các đồng chí Kính, Cảnh, đồng chí Chân tiếp tục tuyên truyền, giác ngộ cách mạng cho nhiều công nhân, thợ cội, thợ cành hoành và nhân dân trong xã… Thời gian này, dưới sự tổ chức lãnh đạo của Đảng, phong trào đấu tranh dân sinh - dân chủ diễn ra và thu được thắng lợi ở nhiều địa phương. Đồng chí Chấn, Kính, Cảnh đã xây dựng kế hoạch vận động tổ chức một cuộc đình công lớn đòi quyền lợi chính đáng cho công nhân, thợ cội, thợ hoành và nhân dân lao động. Cuộc đình công đã diễn ra từ đầu đến cuối tháng 05/1937, tại nhiều địa điểm trên địa bàn xã Xuân Thắng. Trước sự kiên trì và quyết liệt đấu tranh của 2.000 công nhân, thợ cội, thợ cành hoành và nhân dân các tổng Trịnh Vạn, Luận Khê, Thanh Quân… buộc chủ tư bản Pháp phải chấp nhận một số yêu sách. Thắng lợi của cuộc đình công đã gây được tiếng vang lớn, đóng góp tiếng nói đấu tranh của nhân dân xã Xuân Thắng và nhân dân huyện Thường Xuân vào phong trào dân sinh - dân chủ ở miền núi Thanh Hóa, tiến tới giai đoạn đấu tranh cách mạng tiếp theo, nổi dậy giàn chính quyền về tay nhân dân trong cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Cuối năm 1949, Tổ đảng xã Thắng Lộc được thành lập, đồng chí Hà Văn Dũng được chỉ định làm Tổ trưởng, đến năm 1951, phát triển thành Chi bộ Đảng cơ sở xã, gồm 12 đảng viên, đồng chí Vi Hồng Oanh được cử giữ chức Bí thư Chi bộ. Sau khi ra đời, tổ Đảng, chi bộ Đảng của xã, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện đã tổ chức nhân dân tiến hành các đợt đấu tranh chính trị hạ uy thế của lang đạo, chủ đất; giành ruộng đất về cho dân cày; từng bước loại bỏ lang đạo, chủ đất ra khỏi bộ máy chính quyền, các đoàn thể chính trị - xã hội; chăm lo phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục; xây dựng lực lượng dân quân - du kích sẵng sàng chiến đấu bảo vệ quê hương; vận động con em, nhân dân trong xã tòng quân lên đường thực hiện nghĩa vụ thiêng liêng với tổ quốc, tham gia dân công, thanh niên xung phong... Đặc biệt trong những năm cuối của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, dù nhân dân còn đói nghèo nhưng hàng năm xã đều hoàn thành nghĩa vụ đóng góp lương thực, thực phẩm cho nhà nước; hàng chục con em tham gia lực lược quân đội nhân dân Việt Nam tham gia chiến đấu tại các chiến trường; hàng ngàn lượt người tham gia dân công tiếp lương tải đại từ các kho thóc trên địa bàn huyện đến các chiến trường… đóng góp một phần công sức nhỏ bé làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp của toàn dân tộc.
Ngày 30/5/1975, chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử kết thúc toàn thắng, miền Nam hoàn toàn được giải phóng, cả nước tiến lên xây dựng CNXH. Tuy nhiên, các thế lực thù địch vẫn chưa chịu từ bỏ ý định chống phá cách mạng nước ta gây ra các cuộc chiến tranh biên giới phía Tây Nam và biên giới phía Bắc của Tổ quốc. Một lần nữa Đảng bộ và nhân dân trong xã lại huy động sức người sức của chi viện cho các chiến trường góp phần giữ vững nền độc lập, bảo vệ từng tất đất thiêng của Tổ quốc. Tổng kết các cuộc chiến tranh, nhân dân Thắng Lộc mặc dù còn rất nhiều khó khăn thiếu thốn song cũng đã cố gắng vươn lên đóng góp sức người sức của. Riêng xã Xuân Thắng hàng trăm con em trong xã đã tòng quân lên đường thực hiện nghĩa vụ thiêng liêng với Tổ quốc, trong đó 33 người đã nằm lại các chiến trường, hơn 15 người trở về không lành lặn là những thương binh, hơn 100 người tham gia thanh niên xung phong, 01 bà mẹ được phong tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”, nhiều cá nhân và tập thể trong xã được Đảng, Nhà nước trao tặng huân, huy chương, bằng khen các loại và nhiều phần thưởng cao quý khác.
Cùng với việc thực hiện hoàn thành nghĩa vụ với Tổ quốc về sức người, sức của, Đảng bộ và nhân dân trong xã đã tích cực triển khai các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước các cấp về hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị vững mạnh, đặc biệt là triển khai thực hiện chủ trương về đổi mới phát triển kinh tế - xã hội quyết tâm “làm cho sản xuất bung ra” theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (khóa IV) và Nghị quyết số 36-NQ/TW (1980) của Ban Bí thư về chủ trương đổi mới công tác tổ chức cán bộ. Đây là những bước chuẩn bị căn bản và quan trọng cho xã Xuân Thắng bước vào giai đoạn phát triển tiếp theo.
Ra đời đúng vào thời kỳ đất nước ta đang trong giai đoạn đầu của quá trình chuyển đổi cơ chế, ngoài những khó khăn chung, xã Xuân Thắng có những khó khăn riêng. Đó là cơ sở vật chất, hạ tầng kinh tế - xã hội còn nhiều thiếu thốn: trụ sở làm việc của Đảng uỷ, HĐND - UBND xã, MTTQ và các đoàn thể, các trường học, trạm xá đều là nhà tạm, hoặc mượn nhà dân; điện, nước sạch không có, đường xá lâu năm chưa được tu bổ, mở rộng, nhất là các tuyến đường giao thông nông vào thôn Xem, Én, Xương. Bước đầu thực hiện quy mô lại các HTX theo thôn bản và giao khoán sản xuất theo tinh thần chỉ thị 100, hoạt động điều hành sản xuất của các HTX còn lúng túng, người nông dân nhận giao khoán chưa nhận thức hết lợi ích được hưởng, tỉ lệ ứng dụng khoa học kỹ thuật, giống mới thấp… nên năng suất, sản lượng tăng không đáng kể, hàng hóa tiêu dùng vẫn rất khan hiếm, đời sống nhân dân chưa được cải thiện, vẫn còn rất khó khăn, thiếu thốn.
Được sự giúp đỡ của Huyện ủy, HĐND - UBND huyện và các ban ngành, đoàn thể ở huyện, Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân xã Xuân Thắng từng bước vươn lên khắc phục khó khăn, thiếu thốn. Công tác tổ chức cán bộ được Đảng bộ đặt lên hàng đầu nhằm tạo ra bước đột phá trong tổ chức lãnh đạo phong trào vì đội ngũ cán bộ xã vừa thiếu, vừa yếu, đại bộ phận cán bộ là quân nhân xuất ngũ trở về, trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kinh nghiệm quản lý lãnh đạo hạn chế. Đảng bộ từng bước bố trí, sắp xếp và tiến hành quy hoạch gửi đi đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị tạo nguồn cán bộ lâu dài. Tháng 4/ 1984, Đảng bộ tổ chức Đại hội lần thứ nhất để củng cố, kiện toàn Ban Chấp hành, đồng chí Lương Công Tuyên được cử giữ chức Bí thư Đảng ủy, đồng chí Hà Huy Thiếp, Phó Bí thư - Chủ tịch UBND xã. Sau Đại hội Đảng bộ, Chính quyền, MTTQ, các đoàn thể được củng cố, kiện toàn lại nhằm đáp ứng yêu cầu tổ chức lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị của địa phương.
Việc xây dựng, củng cố cơ ở vật chất được Đảng bộ hết sức quan tâm thực hiện, vừa tranh thủ sự quan tâm hỗ trợ của các cấp các ngành, vừa phát huy nội lực nhân dân trong xã, Đảng bộ đã tổ chức phát động nhiều đợt chiến dịch làm tu bổ đường 703 chạy qua địa bàn xã, các tuyến đườn giao thông nông thôn; tu bổ hồ đập, mương máng thủy lợi, xây dựng trường học, trạm xá... đáp ứng được yêu cầu phát triển trước mắt của xã. Bên cạnh đó, Đảng bộ tích cực triển khai thực hiện 1 cách đồng bộ các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước các cấp về phát triển kinh tế - xã hội đặc biệt là Chỉ thị 02-CT/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thanh Hóa về khắc phục, sửa chữa khuyết điểm trong thực hiện khoán 100 gắn với đổi mới tổ chức quản lý HTX nông nghiệp. Đời sống kinh tế - xã hội đã có những bức chuyển biến quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi để Đảng bộ bước vào giai đoạn phát triển tiếp theo.
Tháng 12/1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI quyết định triển khai thực hiện đường lối đổi mới toàn diện và sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực. Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, đặc biệt là chủ trương thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn: “lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu”, Đảng bộ xã từng bước lãnh đạo chuyển đổi cơ chế quản lý sản xuất, đẩy mạnh thực hiện khóa 100, từ sau năm 1988 là khoán 10 (Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa VI) giao khoán ruộng đất đến từng hộ gia đình; từng bước vận hành cơ cấu kinh tế mới theo hướng cân đối giữa trồng trọt với chăn nuôi, phát triển nâng cao tỷ trọng các ngành lâm nghiệp, dịch vụ trong cơ cấu kinh tế, đưa kinh tế - xã hội của xã từng bước đi lên. Về văn hoá - xã hội, quy mô trường lớp các bậc học mở rộng, đáp ứng nhu cầu học tập của con em; trạm xá xã thực hiện tốt công tác khám chữa bệnh ban đầu, thực hiện các chương trình, mục tiêu y tế quốc gia đạt kết quả tốt, mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân tăng lên, số hộ mua sắm được phương tiện nghe nhìn như ra-đi-ô, cát-séc, ti-vi, xe máy ngày một nhiều; phong trào rèn luyện thể dục thể thao phát triển, các thôn đều quy hoạch sân chơi bãi tập, độ tuyển của xã tham gia thi đấu tuyến huyện đạt được nhiều giải thưởng cao.
Tháng 6/ 1996, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII được tiến hành quyết định đưa nước ta vào giai đoạn đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vận dụng thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII trong điều kiện xã miền núi vùng cao còn nhiều khó khăn như giao thông chưa đồng bộ, điện thoại, điện sáng chưa có, đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân đã được nâng lên đáng kể nhưng còn kém xa các xã miền xuôi… Đảng bộ xác định công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn xã là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông - lâm nghiệp và
Về phát triển kinh tế: Từ năm 1996 đã cơ bản hoàn thành việc giao đất lâm nghiệp cho các hộ dân sử dụng ổn định lâu dài với trên 1.300 ha. Kinh tế rừng nhanh chóng phát triển, đã triển khai phát triển lâm nghiệp theo các dự án ADB có hiệu quả; diện tích keo trên 500ha, luồng 350ha và bảo vệ diện tích nứa, vầu, đem lại nguồn thu chủ yếu cho người dân. Thực hiện đề án phát triển cây cao su tiểu điền, xã tổ chức cho nhân dân trồng được 150ha và triển khai từ này đến 2015 trồng trên 300ha, thành một trong những xã của huyện có diện tích cao su lớn nhất và đưa lại nguồn thu chủ yêu cho người dân. Phối hợp với BQL rừng Sông Đằn quản lý trên 2.100ha rừng phòng hộ.
Trong trồng trọt và chăn nuôi cũng có bước phát triển, sau khi có Chỉ thị số 07 của Tỉnh uỷ, xã đã nhanh chóng giao đất ruộng cho hộ dân sản xuất ổn định lâu dài, từ diện tích đất ruộng ít cộng với khai hoang, đến nay toàn xã có trên 180ha đất lúa; áp dụng khoa học kỹ thuật, giống mới vào sản xuất, nâng năng suất trung bình đạt trên 55tạ/ha, sản lượng lương thực đạt trên 645tấn, đã cơ bản đảm bảo an ninh lương thực ở địa phương. Ngoài diện tích lúa, toàn xã còn trên 150ha sắn và 50ha mía, hàng năm cung cấp cho các nhà máy chế biến. Với diện tích đất rộng, chăn nuôi gia súc, gia cầm được quan tâm, đàn trâu bò có trên 2.000 con, đàn lợn trên 3.000 con, gia cầm các loại trên 17.000 con, vừa là nguồn thực phẩm vừa là hàng hoá tăng thu nhập cho mỗi hộ gia đình.
Lâm - nông nghiệp phát triển, đời sống của nhân dân được cải thiện, đến nay xã không còn hộ đói, số hộ nghèo theo tiêu chí mới là 623 hộ (chiếm 64%), số hộ khá tăng lên 10%, 65% số hộ có nhà kiên cố, 95% số hộ có xe máy 100% số hộ có các phương tiện nghe nhìn, 70% hộ có điện thoại cố định, 100% hộ có số thuê bao di động, có điểm truy cập In-tơ-nét công cộng… Tính đến cuối kỳ năm 2012, mức thu nhập bình quân đầu người của xã đạt 4 triệu đồng/người/năm, cao gấp 2,5 lần so với năm 1990, tổng giá trị nền kinh tế xã đạt 35 tỷ đồng, cơ cấu kinh tế là lâm nghiệp: 40%, nông nghiệp: 45%, dịch vụ: 15%.
Xây dựng nông thôn mới luôn được xã quan tâm chú trọng, xác định là nhiệm vụ chính trị quan trọng để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và củng cố quốc phòng - an ninh ở địa phương, cho nên trong triển khai các nhiệm vụ của các cấp, các ngành cấp trên chỉ đạo và các nhiệm vụ của địa phương đề ra luôn được xã gắn kết với nhau để thực hiện các tiêu chí xây dựng nông thôn mới. Trong những năm qua mặc dù địa bàn rộng, dân cư ít, sinh sống không tập trung, xã đã lập được đề án và quy hoạch sử dụng đất, hướng dẫn cụ thể các tiêu chí xây dựng nông thôn mới do nhân dân là chủ thể thực hiện như làm đường giao thông nông thôn, bảo vệ môi trường, an ninh trật tự, văn hóa... Trong dịp kỷ niệm 30 năm thành lập xã, đã phát động nhân dân ra quân làm đường giao thông nông thôn để đường làng thông thoáng, từng bước bê tông hóa và dọn dẹp vệ sinh môi trường.
Người dân hưởng ứng làm đường giao thông liên thôn xây dựng Nông thôn mới
Hạ tầng kinh tế - xã hội được đầu tư xây dựng đồng bộ: chương trình điện khí hoá nông thôn đã cung cấp điện cho sản xuất và sinh hoạt của người dân, đã có 5 trạm biến áp hạ thế dung lượng 150KVA và hệ thống dây điện hạ thế 0,4KV kéo về trung tâm 8 thôn, hơn 80% hộ dân đã được sử dụng điện lưới quốc gia. Cơ sở vật chất bưu chính viễn thông đã có 01 điểm bưu điện văn hoá xã có điểm truy cập internet cộng đồng, 4 trạm thu phát sóng di động của Viettel, Vinaphone bao phủ sóng đến tất cả các thôn, điện thoại di động được sử dụng rộng rãi. Có 8/8 thôn đã xây dựng nhà văn hoá làm nơi sinh hoạt cộng đồng. Tuyến đường tỉnh lộ 703 đi qua giữa xã và các tuyến đường ATK đi vào các thôn Én, Xương, Xem đã được nhựa hóa trên 30km, đi lại và trao đổi hàng hóa thuận lợi hơn trước và hơn nhiều các thôn xã bạn. Các công trình đập thủy lợi đã hình thành, đã xây dựng 3 đập thủy lợi tại các thôn Đót, Tân Thắng, Xem đáp ứng một phần tưới nước cho sản xuất nông nghiệp; tiếp tục đề nghị sửa chữa đập Tà Cu (thôn Dín), làm mới đập thủy lợi Tà Khó (thôn Tân Thọ) tạo thành hệ thống đập thủy lợi đồng bộ, đáp ứng cơ bản cung cấp nguồn nước cho sản xuất của nhân dân các thôn. Chương trình kiên hoá trường lớp học đã được đầu tư theo chương trình 159, 174, 20 của Chính phủ, đến nay 100% số lớp học được xây dựng kiên cố, chấm dứt tình trạng phải học 2 ca/ngày. Trụ sở cơ quan công sở xã đã được xây dựng văn minh - sạch đẹp, tạo điều kiện cho cán bộ, công chức xã có nơi làm việc và thuận lợi cho công tác tiếp dân, giải quyết chế độ, chính sách, quyền lợi của nhân dân.
Xuân Thắng đang đổi mới từng ngày
Về văn hóa - xã hội: Sự nghiệp trồng người được chăm lo, chú trọng ở cả 3 cấp bậc học do đó các nhà trường không ngừng mở rộng về quy mô, phát động các phong trào thi đua dạy tốt, học tốt có hiệu quả. Chất lượng giáo dục đại trà và giáo dục mũi nhọn hàng năm đều tăng lên. Về giáo dục mũi nhọn, tính riêng 10 năm học từ 2003 đến 2013, các nhà trường đã có 260 em học sinh giỏi cấp huyện, 15 em học sinh giỏi cấp tỉnh; giáo viên giỏi cấp huyện là 45 lượt người, cấp tỉnh là 12 lượt. Cả 3 trường học đều đã khai trương xây dựng cơ quan văn hoá và đang xây dựng trường chuẩn quốc gia. Con em xã hàng năm có từ 10 đến 15 em thi đậu vào các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp. Thực hiện chủ trương xã hội hoá giáo dục của Đảng và Nhà nước, xã là một trong những đơn vị đầu tiên của huyện nhà thành lập được Trung tâm học tập cộng đồng với các nội dung hoạt động phong phú, được các cấp và ngành đánh giá cao. Hội khuyến học - khuyến tài cũng ra đời sớm, kịp thời xây dựng chương trình hành động đẩy mạnh việc xây dựng “xã hội học tập” theo chủ trương của Đảng và nhà nước, đẩy mạnh việc xây dựng gia đình hiếu học, thôn hiếu học, xây dựng quỹ khuyến học - khuyến tài để khuyến khích các em học sinh nghèo vượt khó. Do thực hiện tốt chủ trương xã hội hoá giáo dục, nên đã huy động được sức dân cùng đóng góp cho nền giáo dục địa phương để xây dựng cơ sở vật chất lên tới 100 triệu đồng.
Các chính sách an sinh xã hội, hoạt động đền ơn đáp nghĩa diễn ra thường xuyên, liên tục, được nhân dân đồng tình ủng hộ. Hàng năm đều giành phần quà tặng cho các hộ chính sách, các hộ và các cháu học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Vận động quyên góp ủng hộ đông bào bị thiên tai, nạn nhân chiến tranh được hơn 10 triệu đồng. Tặng sổ tiết kiệm tình nghĩa cho các gia đình liệt sĩ, thương binh. Hỗ trợ sửa chữa nhiều nhà cho đối tượng thương binh nặng, cùng gia đình, dòng họ xây dựng các nhà tình thương-tình nghĩa, nhà đại đoàn kết cho các hộ chính sách, hộ nghèo. Các chính sách của Đảng và Nhà nước như chương trình 135, 134, 167, 30a về hỗ trợ sản xuất, chăn nuôi, xoá nhà tranh tre dột nát, khám chữa bệnh, học hành và các nguồn vốn vay xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế, luôn được xã quan tâm giải quyết kịp thời.
Công tác xây dựng Đảng tiếp tục được xem là khâu then chốt, quyết định mọi thắng lợi. Do đó, cả bốn mặt công tác chính trị tư tưởng, công tác tổ chức, công tác kiểm tra, công tác dân vận được Đảng bộ quan tâm thích đáng. Với đặc thù là mới được chia tách số lượng đảng viên ít, đến những năm 1990 toàn Đảng bộ mới có 37 đảng viên sinh hoạt tại 8 chi bộ thì đến nay đã phát triển lên đến 187 đảng viên; đón nhận thêm 5 chi bộ, gồm: Tiểu học năm 2001, Trường THCS năm 2004, Trạm y tế năm 2004, cơ quan xã năm 2008 và Trường Mần non năm 2009, nâng số chi bộ lên 13 chi bộ. Đảng viên trong Đảng bộ luôn gương mẫu đi đầu trong mọi phong trào, thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước; các chi bộ đã lãnh đạo đơn vị, cơ quan thực hiện có kết quả các nhiệm vụ do cấp trên giao và chương trình, mục tiêu đề ra, đặc biệt đã thực hiện tốt các Chỉ thị số 06, 03 của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về “một số vấn đề cấp bách trong xây dựng Đảng hiện nay”; củng cố bộ máy tổ chức Đảng gắn với thực hiện xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh và kiện toàn củng cố tổ chức bộ máy chính quyền, MTTQ, các đoàn thể. Những nỗ lực trong công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ đã được các cấp ghi nhận, nhiều năm Đảng bộ được công nhận là đơn vị trong sạch vững mạnh.
Trong mọi công tác, Đảng bộ, chính quyền phải thực sự lấy dân làm gốc, không ngừng chăm lo nâng cao đời sống cho nhân dân, thực hiện tốt dân chủ XHCN, thực hiện các công việc phải cho “dân biết, do dân bàn, dân làm, dân kiểm tra và dân thủ hưởng”. Cán bộ, đảng viên phải là “công bộc của dân”, phấn đấu vì lợi ích của nhân dân. Đây cũng chính là sức mạnh, vũ khí đấu tranh chống lại sự chia rẽ, suy thoái về đạo đức, sự thoái hoá, biến chất trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, tăng cường được mối đoàn kết gắn bó trong nhân dân và giữa Đảng bộ với nhân dân, là sức mạnh tinh thần vô giá để Xuân Thắng tiến hành CNH - HĐH thành công.
Bùi Văn Luọng, VP.HĐND-UBND, Tháng 9/2013.
Không khí chuẩn bị lễ tổ chức 30 năm thành lập xã (29/9/1983-29/9/2013)
Lế tổ chức 30 năm thành lập xã
Từ khi được thành lập đến nay, địa giới hành chính xã Xuân Thắng tương đối ổn định, có ranh giới tiếp giáp với các xã như sau: phía Bắc xã giáp xã Xuân Lộc; Phía Nam giáp xã Cát Vân (huyện Như Xuân); phía Đông giáp xã Tân Thành và Luận Khê; phía Tây giáp xã Xuân Chinh. Địa hình của xã dạng lồi lõi, cao thấp không đều. Vùng thấp chiếm diện tích nhỏ là các thung lũng hẹp và vùng chân núi nơi hình thành các cánh đồng trồng lúa và khu dân cư, xây dựng các công trình phát triển kinh tế - xã hội, phúc lợi công cộng. Vùng đồi núi cáo chiếm phần lớn diện tích. Trên địa bàn xã có các ngọn núi cao như Bù Tây Thang (309,4m) ở phía Nam của xã, Bù Ngua (512,4m) ở phía Bắc của xã. Hệ thống sông suối ít, chỉ có Sông Đót từ huyện Như Xuân chảy qua địa bàn khoảng 5km, còn lại các khe suối nhỏ, nên nguồn nước mặt cho sản xuất nông nghiệp thiếu, nhất là vào mùa khô. Đặc điểm khí hậu của xã mang đặc thù khí hậu nhiệt đới gió mùa của vùng miền núi Thanh Hoá: nắng nóng về mùa hè, rét buốt về mùa đông, khô hạn về mùa đông - xuân, mưa nhiều gây lũ lụt và giông bão về mùa hè - thu.
Hiện nay, dân số của xã 4.350 khẩu, 969 hộ, gồm 2 dân tộc: dân tộc Thái 4.263 người (chiếm 98%), dân tộc Kinh 87 người (chiếm 2%) mới định cư từ sau năm 1962 theo chủ trương định canh định cư xây dựng kinh tế mới của Đảng và Nhà nước. Đồng bào dân tộc Thái sớm có mặt trên vùng đất này, đã cùng chung lưng đấu cật khắc phục khó khăn, chống chọi với thú dữ và thiên tai, địch họa để tạo lập, xây dựng cuộc sống, giữ gìn và phát huy sắc thái, bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc. Từ cuối thời Trần, vùng đất xã Xuân Thắng đã tương đối phát triển, bước vào giai đoạn mới. Nếu như các bản làng nười Thái xung quanh vẫn là các động, sách - tức đơn vị hành chính cơ sở mang tính tự quản, thì nơi đây chính quyền phong kiến trung ương đã cho thiết lập bộ máy hành chính cơ sở chính thức với tên gọi thôn Thọ Thắng (thôn tương đương xã). Tên gọi này là sự chuyển âm tên gọi bản làng của đồng bào dân tộc Thái sang tiếng Việt theo âm Hán - Việt: Thọ xuất phát từ Khó - Ban Khó, Thắng xuất phát từ Săng - Ban Săng. Thọ Thắng là 1 trong 12 thôn, động, sách (đơn vị hành chính cơ sở) của huyện Thọ Xuân - cũ, thuộc trấn Thanh Đô. Cuối đời Lê, do thiên tai, giặc giã liên miên, hơn một nửa số đơn vị hành chính cơ sở của huyện Thọ Xuân nhân dân lưu tán hết, nhân dân Thọ Thắng, cùng với nhân dân Mậu Lộc, Trịnh Vạn, Quân Thiên, Lâm Lự đã kiên trì bám trụ ở lại giữ đất, giữ làng tiếp tục xây dựng vùng đất này. Thời Nguyễn, triều đình phong kiến trung ương quyết định xóa tên huyện Thọ Xuân và nhập phần đất của huyện Thọ Xuân vào châu Lang Cháng. Thọ Thắng cùng với Mậu Lộc thuộc tổng Mậu Lộc, cùng với các tổng Trịnh Vạn, Quân Thiên, Lâm Lự thuộc châu Lang Chánh. Năm 1837, thành lập châu Thường Xuân trên cơ sở vùng đất huyện Thọ Xuân - cũ. Lúc này thôn Thọ Thắng, đổi thành xã Thọ Thắng, thuộc tổng Trịnh Vạn, châu Thường Xuân cho đến cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Ngày 03/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời lãnh đạo nhân dân làm cách mạng. Do tay sai phong kiến và chủ tư bản Pháp kìm kẹp, giam hãm, bưng bít thông tin… nên ở Thọ Thắng nói riêng và châu Thường Xuân nói chung chưa có điều kiện thành lập các tổ chức cách mạng và tổ chức Đảng. Cuối năm 1936, đồng chí Nguyễn Ngọc Chấn (quê ở huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh) được Chi bộ Neo - Quần Kênh (huyện Thọ Xuân) bố trí đưa về thôn Dín để hoạt động với danh nghĩa là thầy giáo dạy chữ Quốc ngữ. Sau một thời gian ngắn tổ chức dạy học, đồng chí Chấn đã bí mật tuyên truyền và giác ngộ cách mạng cho 2 đồng chí Vi Đức Kính, Vi Thế Cảnh, là con em xã Xuân Thắng. Thông quan các đồng chí Kính, Cảnh, đồng chí Chân tiếp tục tuyên truyền, giác ngộ cách mạng cho nhiều công nhân, thợ cội, thợ cành hoành và nhân dân trong xã… Thời gian này, dưới sự tổ chức lãnh đạo của Đảng, phong trào đấu tranh dân sinh - dân chủ diễn ra và thu được thắng lợi ở nhiều địa phương. Đồng chí Chấn, Kính, Cảnh đã xây dựng kế hoạch vận động tổ chức một cuộc đình công lớn đòi quyền lợi chính đáng cho công nhân, thợ cội, thợ hoành và nhân dân lao động. Cuộc đình công đã diễn ra từ đầu đến cuối tháng 05/1937, tại nhiều địa điểm trên địa bàn xã Xuân Thắng. Trước sự kiên trì và quyết liệt đấu tranh của 2.000 công nhân, thợ cội, thợ cành hoành và nhân dân các tổng Trịnh Vạn, Luận Khê, Thanh Quân… buộc chủ tư bản Pháp phải chấp nhận một số yêu sách. Thắng lợi của cuộc đình công đã gây được tiếng vang lớn, đóng góp tiếng nói đấu tranh của nhân dân xã Xuân Thắng và nhân dân huyện Thường Xuân vào phong trào dân sinh - dân chủ ở miền núi Thanh Hóa, tiến tới giai đoạn đấu tranh cách mạng tiếp theo, nổi dậy giàn chính quyền về tay nhân dân trong cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Cuối năm 1949, Tổ đảng xã Thắng Lộc được thành lập, đồng chí Hà Văn Dũng được chỉ định làm Tổ trưởng, đến năm 1951, phát triển thành Chi bộ Đảng cơ sở xã, gồm 12 đảng viên, đồng chí Vi Hồng Oanh được cử giữ chức Bí thư Chi bộ. Sau khi ra đời, tổ Đảng, chi bộ Đảng của xã, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện đã tổ chức nhân dân tiến hành các đợt đấu tranh chính trị hạ uy thế của lang đạo, chủ đất; giành ruộng đất về cho dân cày; từng bước loại bỏ lang đạo, chủ đất ra khỏi bộ máy chính quyền, các đoàn thể chính trị - xã hội; chăm lo phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục; xây dựng lực lượng dân quân - du kích sẵng sàng chiến đấu bảo vệ quê hương; vận động con em, nhân dân trong xã tòng quân lên đường thực hiện nghĩa vụ thiêng liêng với tổ quốc, tham gia dân công, thanh niên xung phong... Đặc biệt trong những năm cuối của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, dù nhân dân còn đói nghèo nhưng hàng năm xã đều hoàn thành nghĩa vụ đóng góp lương thực, thực phẩm cho nhà nước; hàng chục con em tham gia lực lược quân đội nhân dân Việt Nam tham gia chiến đấu tại các chiến trường; hàng ngàn lượt người tham gia dân công tiếp lương tải đại từ các kho thóc trên địa bàn huyện đến các chiến trường… đóng góp một phần công sức nhỏ bé làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp của toàn dân tộc.
Ngày 30/5/1975, chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử kết thúc toàn thắng, miền Nam hoàn toàn được giải phóng, cả nước tiến lên xây dựng CNXH. Tuy nhiên, các thế lực thù địch vẫn chưa chịu từ bỏ ý định chống phá cách mạng nước ta gây ra các cuộc chiến tranh biên giới phía Tây Nam và biên giới phía Bắc của Tổ quốc. Một lần nữa Đảng bộ và nhân dân trong xã lại huy động sức người sức của chi viện cho các chiến trường góp phần giữ vững nền độc lập, bảo vệ từng tất đất thiêng của Tổ quốc. Tổng kết các cuộc chiến tranh, nhân dân Thắng Lộc mặc dù còn rất nhiều khó khăn thiếu thốn song cũng đã cố gắng vươn lên đóng góp sức người sức của. Riêng xã Xuân Thắng hàng trăm con em trong xã đã tòng quân lên đường thực hiện nghĩa vụ thiêng liêng với Tổ quốc, trong đó 33 người đã nằm lại các chiến trường, hơn 15 người trở về không lành lặn là những thương binh, hơn 100 người tham gia thanh niên xung phong, 01 bà mẹ được phong tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”, nhiều cá nhân và tập thể trong xã được Đảng, Nhà nước trao tặng huân, huy chương, bằng khen các loại và nhiều phần thưởng cao quý khác.
Cùng với việc thực hiện hoàn thành nghĩa vụ với Tổ quốc về sức người, sức của, Đảng bộ và nhân dân trong xã đã tích cực triển khai các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước các cấp về hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị vững mạnh, đặc biệt là triển khai thực hiện chủ trương về đổi mới phát triển kinh tế - xã hội quyết tâm “làm cho sản xuất bung ra” theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (khóa IV) và Nghị quyết số 36-NQ/TW (1980) của Ban Bí thư về chủ trương đổi mới công tác tổ chức cán bộ. Đây là những bước chuẩn bị căn bản và quan trọng cho xã Xuân Thắng bước vào giai đoạn phát triển tiếp theo.
Ra đời đúng vào thời kỳ đất nước ta đang trong giai đoạn đầu của quá trình chuyển đổi cơ chế, ngoài những khó khăn chung, xã Xuân Thắng có những khó khăn riêng. Đó là cơ sở vật chất, hạ tầng kinh tế - xã hội còn nhiều thiếu thốn: trụ sở làm việc của Đảng uỷ, HĐND - UBND xã, MTTQ và các đoàn thể, các trường học, trạm xá đều là nhà tạm, hoặc mượn nhà dân; điện, nước sạch không có, đường xá lâu năm chưa được tu bổ, mở rộng, nhất là các tuyến đường giao thông nông vào thôn Xem, Én, Xương. Bước đầu thực hiện quy mô lại các HTX theo thôn bản và giao khoán sản xuất theo tinh thần chỉ thị 100, hoạt động điều hành sản xuất của các HTX còn lúng túng, người nông dân nhận giao khoán chưa nhận thức hết lợi ích được hưởng, tỉ lệ ứng dụng khoa học kỹ thuật, giống mới thấp… nên năng suất, sản lượng tăng không đáng kể, hàng hóa tiêu dùng vẫn rất khan hiếm, đời sống nhân dân chưa được cải thiện, vẫn còn rất khó khăn, thiếu thốn.
Được sự giúp đỡ của Huyện ủy, HĐND - UBND huyện và các ban ngành, đoàn thể ở huyện, Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân xã Xuân Thắng từng bước vươn lên khắc phục khó khăn, thiếu thốn. Công tác tổ chức cán bộ được Đảng bộ đặt lên hàng đầu nhằm tạo ra bước đột phá trong tổ chức lãnh đạo phong trào vì đội ngũ cán bộ xã vừa thiếu, vừa yếu, đại bộ phận cán bộ là quân nhân xuất ngũ trở về, trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kinh nghiệm quản lý lãnh đạo hạn chế. Đảng bộ từng bước bố trí, sắp xếp và tiến hành quy hoạch gửi đi đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị tạo nguồn cán bộ lâu dài. Tháng 4/ 1984, Đảng bộ tổ chức Đại hội lần thứ nhất để củng cố, kiện toàn Ban Chấp hành, đồng chí Lương Công Tuyên được cử giữ chức Bí thư Đảng ủy, đồng chí Hà Huy Thiếp, Phó Bí thư - Chủ tịch UBND xã. Sau Đại hội Đảng bộ, Chính quyền, MTTQ, các đoàn thể được củng cố, kiện toàn lại nhằm đáp ứng yêu cầu tổ chức lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị của địa phương.
Việc xây dựng, củng cố cơ ở vật chất được Đảng bộ hết sức quan tâm thực hiện, vừa tranh thủ sự quan tâm hỗ trợ của các cấp các ngành, vừa phát huy nội lực nhân dân trong xã, Đảng bộ đã tổ chức phát động nhiều đợt chiến dịch làm tu bổ đường 703 chạy qua địa bàn xã, các tuyến đườn giao thông nông thôn; tu bổ hồ đập, mương máng thủy lợi, xây dựng trường học, trạm xá... đáp ứng được yêu cầu phát triển trước mắt của xã. Bên cạnh đó, Đảng bộ tích cực triển khai thực hiện 1 cách đồng bộ các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước các cấp về phát triển kinh tế - xã hội đặc biệt là Chỉ thị 02-CT/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thanh Hóa về khắc phục, sửa chữa khuyết điểm trong thực hiện khoán 100 gắn với đổi mới tổ chức quản lý HTX nông nghiệp. Đời sống kinh tế - xã hội đã có những bức chuyển biến quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi để Đảng bộ bước vào giai đoạn phát triển tiếp theo.
Tháng 12/1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI quyết định triển khai thực hiện đường lối đổi mới toàn diện và sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực. Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, đặc biệt là chủ trương thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn: “lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu”, Đảng bộ xã từng bước lãnh đạo chuyển đổi cơ chế quản lý sản xuất, đẩy mạnh thực hiện khóa 100, từ sau năm 1988 là khoán 10 (Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa VI) giao khoán ruộng đất đến từng hộ gia đình; từng bước vận hành cơ cấu kinh tế mới theo hướng cân đối giữa trồng trọt với chăn nuôi, phát triển nâng cao tỷ trọng các ngành lâm nghiệp, dịch vụ trong cơ cấu kinh tế, đưa kinh tế - xã hội của xã từng bước đi lên. Về văn hoá - xã hội, quy mô trường lớp các bậc học mở rộng, đáp ứng nhu cầu học tập của con em; trạm xá xã thực hiện tốt công tác khám chữa bệnh ban đầu, thực hiện các chương trình, mục tiêu y tế quốc gia đạt kết quả tốt, mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân tăng lên, số hộ mua sắm được phương tiện nghe nhìn như ra-đi-ô, cát-séc, ti-vi, xe máy ngày một nhiều; phong trào rèn luyện thể dục thể thao phát triển, các thôn đều quy hoạch sân chơi bãi tập, độ tuyển của xã tham gia thi đấu tuyến huyện đạt được nhiều giải thưởng cao.
Tháng 6/ 1996, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII được tiến hành quyết định đưa nước ta vào giai đoạn đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vận dụng thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII trong điều kiện xã miền núi vùng cao còn nhiều khó khăn như giao thông chưa đồng bộ, điện thoại, điện sáng chưa có, đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân đã được nâng lên đáng kể nhưng còn kém xa các xã miền xuôi… Đảng bộ xác định công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn xã là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông - lâm nghiệp và
Về phát triển kinh tế: Từ năm 1996 đã cơ bản hoàn thành việc giao đất lâm nghiệp cho các hộ dân sử dụng ổn định lâu dài với trên 1.300 ha. Kinh tế rừng nhanh chóng phát triển, đã triển khai phát triển lâm nghiệp theo các dự án ADB có hiệu quả; diện tích keo trên 500ha, luồng 350ha và bảo vệ diện tích nứa, vầu, đem lại nguồn thu chủ yếu cho người dân. Thực hiện đề án phát triển cây cao su tiểu điền, xã tổ chức cho nhân dân trồng được 150ha và triển khai từ này đến 2015 trồng trên 300ha, thành một trong những xã của huyện có diện tích cao su lớn nhất và đưa lại nguồn thu chủ yêu cho người dân. Phối hợp với BQL rừng Sông Đằn quản lý trên 2.100ha rừng phòng hộ.
Trong trồng trọt và chăn nuôi cũng có bước phát triển, sau khi có Chỉ thị số 07 của Tỉnh uỷ, xã đã nhanh chóng giao đất ruộng cho hộ dân sản xuất ổn định lâu dài, từ diện tích đất ruộng ít cộng với khai hoang, đến nay toàn xã có trên 180ha đất lúa; áp dụng khoa học kỹ thuật, giống mới vào sản xuất, nâng năng suất trung bình đạt trên 55tạ/ha, sản lượng lương thực đạt trên 645tấn, đã cơ bản đảm bảo an ninh lương thực ở địa phương. Ngoài diện tích lúa, toàn xã còn trên 150ha sắn và 50ha mía, hàng năm cung cấp cho các nhà máy chế biến. Với diện tích đất rộng, chăn nuôi gia súc, gia cầm được quan tâm, đàn trâu bò có trên 2.000 con, đàn lợn trên 3.000 con, gia cầm các loại trên 17.000 con, vừa là nguồn thực phẩm vừa là hàng hoá tăng thu nhập cho mỗi hộ gia đình.
Lâm - nông nghiệp phát triển, đời sống của nhân dân được cải thiện, đến nay xã không còn hộ đói, số hộ nghèo theo tiêu chí mới là 623 hộ (chiếm 64%), số hộ khá tăng lên 10%, 65% số hộ có nhà kiên cố, 95% số hộ có xe máy 100% số hộ có các phương tiện nghe nhìn, 70% hộ có điện thoại cố định, 100% hộ có số thuê bao di động, có điểm truy cập In-tơ-nét công cộng… Tính đến cuối kỳ năm 2012, mức thu nhập bình quân đầu người của xã đạt 4 triệu đồng/người/năm, cao gấp 2,5 lần so với năm 1990, tổng giá trị nền kinh tế xã đạt 35 tỷ đồng, cơ cấu kinh tế là lâm nghiệp: 40%, nông nghiệp: 45%, dịch vụ: 15%.
Xây dựng nông thôn mới luôn được xã quan tâm chú trọng, xác định là nhiệm vụ chính trị quan trọng để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và củng cố quốc phòng - an ninh ở địa phương, cho nên trong triển khai các nhiệm vụ của các cấp, các ngành cấp trên chỉ đạo và các nhiệm vụ của địa phương đề ra luôn được xã gắn kết với nhau để thực hiện các tiêu chí xây dựng nông thôn mới. Trong những năm qua mặc dù địa bàn rộng, dân cư ít, sinh sống không tập trung, xã đã lập được đề án và quy hoạch sử dụng đất, hướng dẫn cụ thể các tiêu chí xây dựng nông thôn mới do nhân dân là chủ thể thực hiện như làm đường giao thông nông thôn, bảo vệ môi trường, an ninh trật tự, văn hóa... Trong dịp kỷ niệm 30 năm thành lập xã, đã phát động nhân dân ra quân làm đường giao thông nông thôn để đường làng thông thoáng, từng bước bê tông hóa và dọn dẹp vệ sinh môi trường.
Người dân hưởng ứng làm đường giao thông liên thôn xây dựng Nông thôn mới
Hạ tầng kinh tế - xã hội được đầu tư xây dựng đồng bộ: chương trình điện khí hoá nông thôn đã cung cấp điện cho sản xuất và sinh hoạt của người dân, đã có 5 trạm biến áp hạ thế dung lượng 150KVA và hệ thống dây điện hạ thế 0,4KV kéo về trung tâm 8 thôn, hơn 80% hộ dân đã được sử dụng điện lưới quốc gia. Cơ sở vật chất bưu chính viễn thông đã có 01 điểm bưu điện văn hoá xã có điểm truy cập internet cộng đồng, 4 trạm thu phát sóng di động của Viettel, Vinaphone bao phủ sóng đến tất cả các thôn, điện thoại di động được sử dụng rộng rãi. Có 8/8 thôn đã xây dựng nhà văn hoá làm nơi sinh hoạt cộng đồng. Tuyến đường tỉnh lộ 703 đi qua giữa xã và các tuyến đường ATK đi vào các thôn Én, Xương, Xem đã được nhựa hóa trên 30km, đi lại và trao đổi hàng hóa thuận lợi hơn trước và hơn nhiều các thôn xã bạn. Các công trình đập thủy lợi đã hình thành, đã xây dựng 3 đập thủy lợi tại các thôn Đót, Tân Thắng, Xem đáp ứng một phần tưới nước cho sản xuất nông nghiệp; tiếp tục đề nghị sửa chữa đập Tà Cu (thôn Dín), làm mới đập thủy lợi Tà Khó (thôn Tân Thọ) tạo thành hệ thống đập thủy lợi đồng bộ, đáp ứng cơ bản cung cấp nguồn nước cho sản xuất của nhân dân các thôn. Chương trình kiên hoá trường lớp học đã được đầu tư theo chương trình 159, 174, 20 của Chính phủ, đến nay 100% số lớp học được xây dựng kiên cố, chấm dứt tình trạng phải học 2 ca/ngày. Trụ sở cơ quan công sở xã đã được xây dựng văn minh - sạch đẹp, tạo điều kiện cho cán bộ, công chức xã có nơi làm việc và thuận lợi cho công tác tiếp dân, giải quyết chế độ, chính sách, quyền lợi của nhân dân.
Xuân Thắng đang đổi mới từng ngày
Về văn hóa - xã hội: Sự nghiệp trồng người được chăm lo, chú trọng ở cả 3 cấp bậc học do đó các nhà trường không ngừng mở rộng về quy mô, phát động các phong trào thi đua dạy tốt, học tốt có hiệu quả. Chất lượng giáo dục đại trà và giáo dục mũi nhọn hàng năm đều tăng lên. Về giáo dục mũi nhọn, tính riêng 10 năm học từ 2003 đến 2013, các nhà trường đã có 260 em học sinh giỏi cấp huyện, 15 em học sinh giỏi cấp tỉnh; giáo viên giỏi cấp huyện là 45 lượt người, cấp tỉnh là 12 lượt. Cả 3 trường học đều đã khai trương xây dựng cơ quan văn hoá và đang xây dựng trường chuẩn quốc gia. Con em xã hàng năm có từ 10 đến 15 em thi đậu vào các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp. Thực hiện chủ trương xã hội hoá giáo dục của Đảng và Nhà nước, xã là một trong những đơn vị đầu tiên của huyện nhà thành lập được Trung tâm học tập cộng đồng với các nội dung hoạt động phong phú, được các cấp và ngành đánh giá cao. Hội khuyến học - khuyến tài cũng ra đời sớm, kịp thời xây dựng chương trình hành động đẩy mạnh việc xây dựng “xã hội học tập” theo chủ trương của Đảng và nhà nước, đẩy mạnh việc xây dựng gia đình hiếu học, thôn hiếu học, xây dựng quỹ khuyến học - khuyến tài để khuyến khích các em học sinh nghèo vượt khó. Do thực hiện tốt chủ trương xã hội hoá giáo dục, nên đã huy động được sức dân cùng đóng góp cho nền giáo dục địa phương để xây dựng cơ sở vật chất lên tới 100 triệu đồng.
Các chính sách an sinh xã hội, hoạt động đền ơn đáp nghĩa diễn ra thường xuyên, liên tục, được nhân dân đồng tình ủng hộ. Hàng năm đều giành phần quà tặng cho các hộ chính sách, các hộ và các cháu học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Vận động quyên góp ủng hộ đông bào bị thiên tai, nạn nhân chiến tranh được hơn 10 triệu đồng. Tặng sổ tiết kiệm tình nghĩa cho các gia đình liệt sĩ, thương binh. Hỗ trợ sửa chữa nhiều nhà cho đối tượng thương binh nặng, cùng gia đình, dòng họ xây dựng các nhà tình thương-tình nghĩa, nhà đại đoàn kết cho các hộ chính sách, hộ nghèo. Các chính sách của Đảng và Nhà nước như chương trình 135, 134, 167, 30a về hỗ trợ sản xuất, chăn nuôi, xoá nhà tranh tre dột nát, khám chữa bệnh, học hành và các nguồn vốn vay xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế, luôn được xã quan tâm giải quyết kịp thời.
Công tác xây dựng Đảng tiếp tục được xem là khâu then chốt, quyết định mọi thắng lợi. Do đó, cả bốn mặt công tác chính trị tư tưởng, công tác tổ chức, công tác kiểm tra, công tác dân vận được Đảng bộ quan tâm thích đáng. Với đặc thù là mới được chia tách số lượng đảng viên ít, đến những năm 1990 toàn Đảng bộ mới có 37 đảng viên sinh hoạt tại 8 chi bộ thì đến nay đã phát triển lên đến 187 đảng viên; đón nhận thêm 5 chi bộ, gồm: Tiểu học năm 2001, Trường THCS năm 2004, Trạm y tế năm 2004, cơ quan xã năm 2008 và Trường Mần non năm 2009, nâng số chi bộ lên 13 chi bộ. Đảng viên trong Đảng bộ luôn gương mẫu đi đầu trong mọi phong trào, thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước; các chi bộ đã lãnh đạo đơn vị, cơ quan thực hiện có kết quả các nhiệm vụ do cấp trên giao và chương trình, mục tiêu đề ra, đặc biệt đã thực hiện tốt các Chỉ thị số 06, 03 của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về “một số vấn đề cấp bách trong xây dựng Đảng hiện nay”; củng cố bộ máy tổ chức Đảng gắn với thực hiện xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh và kiện toàn củng cố tổ chức bộ máy chính quyền, MTTQ, các đoàn thể. Những nỗ lực trong công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ đã được các cấp ghi nhận, nhiều năm Đảng bộ được công nhận là đơn vị trong sạch vững mạnh.
Trong mọi công tác, Đảng bộ, chính quyền phải thực sự lấy dân làm gốc, không ngừng chăm lo nâng cao đời sống cho nhân dân, thực hiện tốt dân chủ XHCN, thực hiện các công việc phải cho “dân biết, do dân bàn, dân làm, dân kiểm tra và dân thủ hưởng”. Cán bộ, đảng viên phải là “công bộc của dân”, phấn đấu vì lợi ích của nhân dân. Đây cũng chính là sức mạnh, vũ khí đấu tranh chống lại sự chia rẽ, suy thoái về đạo đức, sự thoái hoá, biến chất trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, tăng cường được mối đoàn kết gắn bó trong nhân dân và giữa Đảng bộ với nhân dân, là sức mạnh tinh thần vô giá để Xuân Thắng tiến hành CNH - HĐH thành công.
Bùi Văn Luọng, VP.HĐND-UBND, Tháng 9/2013.